01-05-2017, 08:55 AM
Phân biệt bài Ngựa ô nam và bài Ngựa ô bắc
Ở đây chúng ta hiểu là không phải 2 bài này nói về nòi giống của loài ngựa xuất xứ từ đâu.
Các nòi ngựa khác nhau thường được những người gây giống chia làm ba loại. Ngựa được phân loại “ngựa máu nóng” (hot-bloods), “ngựa máu lạnh” (cold-bloods), “ngựa máu ấm” (warm-bloods), không phải dựa trên thân nhiệt, mà dựa trên tính khí và năng lượng của ngựa.
Loại thứ nhất là "máu nóng" hoặc thuần chủng - đó là các nòi Arập và Thoroughbred. Các nòi ngựa này có nhiệt độ máu cũng như các nòi khác, tức là máu của chúng chẳng hề "nóng" hơn các nòi khác. Sở dĩ chúng được đặt tên như vậy vì tính khí mạnh mẽ và vì chúng có gốc gác từ các nòi Arập và Barb ở các xứ nóng Bắc Phi và Arập. “Ngựa máu nóng” gồm các dòng ngựa phương đông như ngựa Á Rập (Arabian horse), Akhal-Teke (ở Turkmenistan), Barb (ở Bắc Phi), ngựa Thoroughbred (tuyển từ ngựa phương đông) của Anh. Ngựa máu nóng dễ dạy, can trường, tính khí tốt, khôn, chạy nhanh và linh động. Thân thể cân xứng, mỏng da, và chân dài. Ngựa này huấn luyện để chạy đua và dung trong kỵ binh.
Loại thứ hai là "máu lạnh", cũng không phải vì chúng có máu lạnh mà vì chúng là ngựa kéo to con, nặng cân, điềm đạm từ các xứ phương bắc khí hậu lạnh. “Ngựa máu lạnh” là các dòng ngựa có cơ bắp, có sức mạnh, tính nết hiền lành, thích hợp việc kéo xe hay kéo cày. Dòng ngựa Shire, nỗi tiếng mạnh, tuy chậm, dùng cày cánh đồng đất sét.
Loại thứ ba là "máu ấm" hoặc "nòi lai", chúng là ngựa lai giữa các nòi máu nóng và máu lạnh. Chính nhóm này cung cấp các chú ngựa thể thao hiện đại nhất, trừ ngựa đua hầu như bao giờ cũng thuộc nòi Thoroughbred. Nguồn gốc tổ tiên của nòi Thoroughbred có thể qui tụ vào ba con ngựa giống nổi tiếng: Byerly Turk (khoảng năm 1689), Darley Arabian (khoảng năm 1705) và Godolphin Arabian (khoảng năm 1728). “Ngựa máu ấm” là các dòng ngựa cởi (riding horse), như Trakehner hay Hanoverian, do lai tạo giữa ngựa chiến với ngựa Á Rập hay Thoroughbreds. Ngựa có thân hình cân xứng, mảnh dẻ, lớn con, tính hiền hòa. Để tạo ngựa cởi nhỏ con hơn, thường dùng ngựa Pony.
Người ta cũng xếp vào bốn nhóm chính:
Ngựa nhẹ (Light Horses). Giống ngựa có xương nhỏ, chân mỏng và trọng lượng ít hơn 1300 pounds, ví dụ như loài Ngựa Thuần Chủng Thoroughbreds, Quarter Horses, ngựa Morgans, Arabians, Saddlebreds và Tennessee Walkers. Giống “Light horses” thường có khoảng chiều cao từ 14 đến 16 hands (cách đo theo bàn tay) tương đương (56-64 inch - 142–163 cm) nặng khoảng 380–550 kg (840 đến 1.200 lb).
Ngựa năng (Heavy Horses). Loài này có thể nặng trên 2000 pounds, rất mạnh, xương lớn, chân to mạnh mẽ các loài tương tự như: Percherons, Clydesdale, Shire, Belgian và Suffolk horses.
Ngựa lùn (Ponies). Loài này thông thường chiều ngang không quá 58 inches, cao khoảng 14,2 gang tay các loài tương tự như: Shetland, Haflinger, Caspian, Fell, Fjord và Chincoteague ponies. Cũng thuộc loài ngựa, nhưng pony là loài ngựa tí hon, thấp hơn 147 cm (< 14.2 hands), có hình dạng khác hơn ngựa thường (chân ngắn, phần bụng giữa chân trước và chân sau khá dài, cỗ ngắn và thô, đầu ngắn, trán rộng), tính tình hiền hậu, thông minh. Ngựa Shetland Pony chỉ cao 102 cm.
Ngựa hoang (Feral Horses). Loài này có hai loại hoang dã và bán hoang dã ví dụ như ngựa Mustang là điển hình cho giống ngựa thả rông.
Ở đây khi phân biệt bài Ngựa ô nam và bài Ngựa ô bắc thì các bạn căn cứ vào các tiêu chí:
1. Nguồn gốc;
2. Hơi của bài;
3. Cách áp dụng.
Các bạn tham khảo link: http://www.conhacvietnam.com/diendan/vie...?f=9&t=532
Chúc các bạn đàn ca vui vẻ. Bạn nào tập được bài nào thì đăng clip lên cho vui diễn đàn nhé.
Ở đây chúng ta hiểu là không phải 2 bài này nói về nòi giống của loài ngựa xuất xứ từ đâu.
Các nòi ngựa khác nhau thường được những người gây giống chia làm ba loại. Ngựa được phân loại “ngựa máu nóng” (hot-bloods), “ngựa máu lạnh” (cold-bloods), “ngựa máu ấm” (warm-bloods), không phải dựa trên thân nhiệt, mà dựa trên tính khí và năng lượng của ngựa.
Loại thứ nhất là "máu nóng" hoặc thuần chủng - đó là các nòi Arập và Thoroughbred. Các nòi ngựa này có nhiệt độ máu cũng như các nòi khác, tức là máu của chúng chẳng hề "nóng" hơn các nòi khác. Sở dĩ chúng được đặt tên như vậy vì tính khí mạnh mẽ và vì chúng có gốc gác từ các nòi Arập và Barb ở các xứ nóng Bắc Phi và Arập. “Ngựa máu nóng” gồm các dòng ngựa phương đông như ngựa Á Rập (Arabian horse), Akhal-Teke (ở Turkmenistan), Barb (ở Bắc Phi), ngựa Thoroughbred (tuyển từ ngựa phương đông) của Anh. Ngựa máu nóng dễ dạy, can trường, tính khí tốt, khôn, chạy nhanh và linh động. Thân thể cân xứng, mỏng da, và chân dài. Ngựa này huấn luyện để chạy đua và dung trong kỵ binh.
Loại thứ hai là "máu lạnh", cũng không phải vì chúng có máu lạnh mà vì chúng là ngựa kéo to con, nặng cân, điềm đạm từ các xứ phương bắc khí hậu lạnh. “Ngựa máu lạnh” là các dòng ngựa có cơ bắp, có sức mạnh, tính nết hiền lành, thích hợp việc kéo xe hay kéo cày. Dòng ngựa Shire, nỗi tiếng mạnh, tuy chậm, dùng cày cánh đồng đất sét.
Loại thứ ba là "máu ấm" hoặc "nòi lai", chúng là ngựa lai giữa các nòi máu nóng và máu lạnh. Chính nhóm này cung cấp các chú ngựa thể thao hiện đại nhất, trừ ngựa đua hầu như bao giờ cũng thuộc nòi Thoroughbred. Nguồn gốc tổ tiên của nòi Thoroughbred có thể qui tụ vào ba con ngựa giống nổi tiếng: Byerly Turk (khoảng năm 1689), Darley Arabian (khoảng năm 1705) và Godolphin Arabian (khoảng năm 1728). “Ngựa máu ấm” là các dòng ngựa cởi (riding horse), như Trakehner hay Hanoverian, do lai tạo giữa ngựa chiến với ngựa Á Rập hay Thoroughbreds. Ngựa có thân hình cân xứng, mảnh dẻ, lớn con, tính hiền hòa. Để tạo ngựa cởi nhỏ con hơn, thường dùng ngựa Pony.
Người ta cũng xếp vào bốn nhóm chính:
Ngựa nhẹ (Light Horses). Giống ngựa có xương nhỏ, chân mỏng và trọng lượng ít hơn 1300 pounds, ví dụ như loài Ngựa Thuần Chủng Thoroughbreds, Quarter Horses, ngựa Morgans, Arabians, Saddlebreds và Tennessee Walkers. Giống “Light horses” thường có khoảng chiều cao từ 14 đến 16 hands (cách đo theo bàn tay) tương đương (56-64 inch - 142–163 cm) nặng khoảng 380–550 kg (840 đến 1.200 lb).
Ngựa năng (Heavy Horses). Loài này có thể nặng trên 2000 pounds, rất mạnh, xương lớn, chân to mạnh mẽ các loài tương tự như: Percherons, Clydesdale, Shire, Belgian và Suffolk horses.
Ngựa lùn (Ponies). Loài này thông thường chiều ngang không quá 58 inches, cao khoảng 14,2 gang tay các loài tương tự như: Shetland, Haflinger, Caspian, Fell, Fjord và Chincoteague ponies. Cũng thuộc loài ngựa, nhưng pony là loài ngựa tí hon, thấp hơn 147 cm (< 14.2 hands), có hình dạng khác hơn ngựa thường (chân ngắn, phần bụng giữa chân trước và chân sau khá dài, cỗ ngắn và thô, đầu ngắn, trán rộng), tính tình hiền hậu, thông minh. Ngựa Shetland Pony chỉ cao 102 cm.
Ngựa hoang (Feral Horses). Loài này có hai loại hoang dã và bán hoang dã ví dụ như ngựa Mustang là điển hình cho giống ngựa thả rông.
Ở đây khi phân biệt bài Ngựa ô nam và bài Ngựa ô bắc thì các bạn căn cứ vào các tiêu chí:
1. Nguồn gốc;
2. Hơi của bài;
3. Cách áp dụng.
Các bạn tham khảo link: http://www.conhacvietnam.com/diendan/vie...?f=9&t=532
Chúc các bạn đàn ca vui vẻ. Bạn nào tập được bài nào thì đăng clip lên cho vui diễn đàn nhé.
Muốn tìm hiểu về các nhạc cụ dân tộc