Nhạc tài tử Nam bộ
Xin chào quý khách! Đăng nhập Đăng kí

Đam San.net -Diễn đàn yêu âm nhạc và nhạc cụ dân tộc Việt Nam


Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
Nhạc tài tử Nam bộ
#1
Tình cờ đọc được bài này trên một trang web, giờ mới hiểu vì sao mình thích nhạc tài tử, hóa ra là vì lối chơi phóng khoáng, tùy hứng sáng tạo, ít niêm luật, ít qui củ, đúng những gì mình thích và rất phù hợp với người tự học (đàn tranh) không bài bản như mình.

Không thấy trang web này dẫn nguồn hoặc nói rõ tác giả là ai, mà chỉ đề là "sưu tầm". Vì vậy mình không dẫn nguồn từ trang mà mình đọc. Xin cáo lỗi cùng tác giả thật của bài viết. Bạn nào biết nguồn của bài viết xin dẫn nguồn giùm. Cám ơn nhiều!

************************

Hồi xưa trong Nam, lúc " Ba ngày Tết ", thì tối lại thường thường dân ở làng hay đi xem một " chầu " Hát Bội, còn dân ở tỉnh thì hay đi xem một " xuất " Cải Lương. Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn tuồng Hát Bội thì khán thính giả phải biết cốt chuyện của tuồng hát (thường thường lấy trong truyện Tàu như : tuồng " Kim Thạch Kỳ Duyên ", tuồng " Ngũ Hổ Bình Tây ", tuồng " San Hậu " và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của việc đánh trống chầu. Giáo sư Nguyễn Ngọc An trong bài " Nghệ Thuật cầm chầu " đã trình bày hết sức rõ rệt nghệ thuật ấy.
Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn xuất cải lương thì khán thính giả cũng phải biết cốt chuyện của tuồng hát (thường thường lấy trong truyện Tàu hay trong tiểu thuyết Việt Nam như tuồng " Phụng Nghi Đình " với cô Bảy Phùng Há, tuồng " Xử Án Bàng Quý Phi " với cô Năm Phỉ, tuồng " Lan và Điệp " với cô Thanh Nga), và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của cổ nhạc Việt Nam. Theo gương của giáo sư Nguyễn Ngọc An, tôi xin cố gắng trình bày sau đây vài nguyên tắc căn bản ấy. Vì thế hệ trẻ Việt Nam sau này đã quen với nhạc Tây Phương, nên tôi xin trình bày những nguyên tắc căn bản ấy dưới hình thức so sánh, bằng những khác biệt, giữa nhạc Tây phương và nhạc Cổ điển miền Nam để cho được dễ hiểu hơn.

I . Khác biệt về các Note đàn

Nhạc Tây phương có bảy (7) nốt đàn (là Do, Ré, Mi, Fa, Sol, La, Si hoặc A, B, C, D, E, F, G) và các dièse (sharp) hoặc bémol (flat) của mỗi nốt ấy. Còn cổ nhạc miền Nam thì cũng có bảy (7) tên nốt đàn (là : Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liếu, Ú) nhưng kỳ thực thì chỉ có năm (5) tiếng nốt đàn (là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, còn Liêu, Ú, là " nấc trên " của Hò và Xự). Nhưng mỗi nốt đàn Việt Nam không có dièse hay bémol của nó mà có vô số tiếng " ngân " éo on của nó, vì nốt đàn Việt Nam đánh lên thường thường là có " ngân " (nhất là khi nốt đàn ở vào cuối nhịp hay cuối câu). " Ngân " không phải là trille vì trille là đánh thật nhiều lần rất mau và đàn và nốt liền ở trên. " Ngân " cũng không hẳn là vibrato vì trong vibrato tuy có sự " rung rung " của ngón tay trái trên nốt đàn nhưng sự căng thẳng (tension) của sợi dây đàn không có thay đổi bao nhiêu ; còn " ngân " thì đánh có một lần vào nốt nào đó trong lúc ngón tay trái vẫn tiếp tục ấn mạnh nhẹ liên hồi vào dây đàn để cho sự căng thẳng của dây thay đổi hầu phát ra những tiếng " éo on " của nốt đàn ấy ; thí dụ như đánh nốt Xang (nhất là ở vào cuối nhịp hay cuối câu) thì không phải để phát ra một tiếng " Xang " rồi thôi, mà phải phát ra một tiếng Xang éo on như " Xàng Xaãang (). (Có lẽ chữ Pháp hay chữ Anh có nghĩa gần nhất với chữ " Ngân " là chữ " Moduler " (Modulate).
Kết quả :

1. Không thể nào dùng nhạc khí Tây phương nào mà không " ngân " được để diễn tả cổ nhạc miền Nam. Thí dụ không thể dùng dương cầm (piano) được, vì không thể " ngân " được, dù cho có giữ ngón tay trên phiếm hay có dùng bàn đạp (pédale) cũng chỉ kéo dài tiếng đàn chớ không phát ra được những tiếng " éo on " của ngân. Còn nếu dùng những nhạc khí có dây của nhạc Tây phương như đàn Madoline hay đàn guitar thì trên cán đàn phải " khoét lỏm " ở chỗ bấm nốt để có thể ấn " mạnh nhẹ, mạnh nhẹ " xuống dây đàn hầu thay đổi sự căng thẳng của nó để mà ngân ". Chỉ có hawailian-guitar là thích hợp để diễn tả cổ nhạc miền Nam nhờ sự có thể nhích tới nhích lui cục sắt nằm trong tay trái để phát ra tiếng " ngân ".
2. Thường thường đàn một bản nhạc Tây phương thì các nốt đàn được đánh lên phải nghe cho thật " clean " nghĩa là không có phụ âm đi kèm ; còn đàn một bản cổ nhạc miền Nam thì các nốt được đánh lên, nghe có phụ âm đi kèm vì " ngân ", (thí dụ : Công-ôố-ống, Xàng-xaã-ang).

II. Khác biệt về quan niệm (conception) một bản đàn

Trong nhạc Tây phương một bản nhạc là một tác phẩm do một nhạc sĩ sáng tác, viết ra để cho mình chơi, người khác chơi, một dàn nhạc chơi và sẽ lưu lại cho hậu thế chơi ; và mỗi khi chơi thì đánh lên không sai một ly những nốt và những ngừng im (pause, silence) đã viết ra trong bản nhạc. Cho nên một nhạc sĩ Tây phương, lúc đàn thì, về mặt kỹ thuật hành sử (exécuter) một nhạc phẩm (có trước mặt hay thuộc lòng) của tác giả ; còn về mặt tình cảm thì " phiên dịch " (interpréter) tình cảm của tác giả ấy, nghĩa là nghĩ rằng, đoán rằng, lúc sáng tác tác giả ấy đang nghĩ đến gì, thì mình cố gắng diễn tả tư tưởng, cảm giác ấy qua bản nhạc của ông ấy mà mình đang đàn. Còn theo cổ nhạc miền Nam, vì không có lối viết nhạc (écriture musicale) nên nhạc sĩ không thể có bản nhạc trước mắt, và vì quan niệm rằng một bản nhạc là một cái khung, một cái mẫu theo điệu nào đó để cho nhạc sĩ theo đó mà sáng tác, liền ngay tại chỗ trong lúc đàn một bản nhạc của mình để diễn tả tư tưởng và cảm giác hiện tại của mình : cho nên có thể nói rằng một nhạc sĩ cổ nhạc miền Nam là một " Instant Composer) ngay lúc đàn, sáng tác một bản nhạc theo điệu nào đó, trong một cái khung hay theo một cái mẫu nào đó (thí dụ : Điệu Bắc, theo mẫu bản Lưu thủy hay bản Tây thi, hoặc Điệu Nam theo mẫu bản Nam xuân hay bản Nam ai, hoặc Điệu Oán theo mẫu bản Tứ đại hay bản Văn thiên Tường).
Kết quả : Theo nhạc Tây phương thì một bản nhạc của Mozart, của Beethoven của Chopin hay của một nhạc sĩ trứ danh nào khác sáng tác, thì một nhạc sĩ ở thế kỷ 18, 19, 20, 21, 22, hay sau nữa, ở Pháp, ở Đức, ở Mỹ, ở Tàu hay ở Nhựt, cũng đã, đang và sẽ, đánh ra bấy nhiêu nốt, ngừng lại bấy nhiêu lâu, không sai một ly, chỉ có khác nhau ở lối diễn tả hay " phiên dịch " (interpréter) cảm giác của tác giả.


Còn theo cổ nhạc miền Nam thì một bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn, nếu được " thu băng " rồi đem ra phân tách kỹ từng nốt đàn và từng lúc im, thì thấy nó sẽ khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của một nhạc sĩ khác đàn (cùng một thứ đàn). Và ngay cùng một người đàn, nếu thu băng rồi phân tích kỹ lại từng nốt đàn thì bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn ngày hôm nay, có khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ mà cũng chính ông Chín Kỳ này đàn ngày hôm trước, hoặc tuần lễ trước, hay ngày hôm sau, hoặc tuần lễ sau, bởi vì theo quan niệm của cổ nhạc miền Nam thì người nhạc sĩ khi đàn là một " Instant Composer " sáng tác ngay tại chỗ một bản đàn theo điệu nào đó, trong khung hay theo mẫu nào đó, để diễn tả tâm hồn hiện tại của mình, tuỳ ý, tuỳ hứng, tuỳ lúc mà tư tưởng và cảm giác của mình thì thay đổi hằng ngày nên bản nhạc đánh ra nghe có khác, mặc dù chung chung biết nó theo điệu gì, mẫu nào. Có lẽ nhạc cổ điển Tàu cũng theo cùng một nguyên tắc cho nên mới có cái tích " Bá Nha, Tử Kỳ ", người này đàn, người kia nghe được, thì " đọc trong ruột " của người ấy mà biết đượcđang nghĩ đến cái gì.
III. Khác biệt về các điệu đàn (mode)

Nhạc Tây phương có nhiều " Điệu " (mode) nhưng thông thường nhứt là hai điệu Mode Majeur và Mode Mineur ; mỗi điệu có nhiều (12) gammes, mỗi gamme được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rõ ràng và khoa học ; cũng như việc chuyển từ điệu này sang điệu kia cũng được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rõ ràng, và khoa học mà không phải sửa đổi sự căng thẳng (tension) của dây đàn.
Còn cổ nhạc miền Nam thì có " ba (3) điệu ", mỗi điệu có một tính chất riêng biệt và một số bài căn bản :



1. " Điệu Bắc " thì nghe vui tai, có vẻ liến xáo, đàn nhanh, nhịp lẹ, ngân ít.
2. " Điệu Nam " thì đàn thong thả hơn, ngân vừa, nhịp khi chặt khi thưa, và phải gây ra một cảm tưởng trầm ngâm, bình thản, nghiêm trang ;
3. " Điệu oán " thì đàn thong thả hơn nữa, ngân nhiều, nhịp thưa, và phải gây ra một cảm tưởng buồn rầu, oán hận, thở than.
Thường thường khi chuyển từ " Điệu Bắc " qua " Điệu Nam " hay " Điệu Oán " thì nhạc sĩ phải vặn cái trục của cây đàn (kìm, cò hay sến) hoặc " nới con nhạn " của đàn tranh để sửa sự căng thẳng (tension) của dây đàn (cho tiếng " xuống " lối demi-ton).



Hồi xưa khi học đàn cổ nhạc miền Nam thì " Thầy đàn " thông thường bắt đầu dạy " Sáu (6) Bài Bắc " là những bài : Bình bán, Phú lục, Tây thi, Cổ bản, Lưu thủy, Hành vân. Mục đích là để cho " quen ngón ", đánh nốt nào bấm cho đúng chỗ, đàn mau, không ngân nhiều, nhịp cho đúng nhịp. (còn có một số " Bài điệu Bắc " nữa, rất hay, là những bài : Kim tiền, Khổng Minh tọa lầu, Xàng xê, Tây thi quảng ...)
Học cho thật thuần Sáu Bài Bắc xong thì " Thầy " cho " qua Nam " hay là " qua Oán ".
Nếu " qua Nam " thì học " ba (3) Bài Nam " là những bài : Đảo ngũ cung, Nam Xuân và Nam Ai (thường đàn Nam Xuân rồi qua Nam Ai). (Hình như có bài Nam Bình nữa mà ít ai biết và ít nói đến).



Nếu " qua Oán " thì họa " Ba (3) Bài Oán " là những bài : Tứ đại oán (khác với Tứ đại cảnh), Văn thiên tường, và Trường tương tư. Còn có một bài Oán cổ điển rất hay nữa là bài " Bình sa lạc nhạn " (nghe tiếng đàn, con chim nhạn đang bay phải rớt té xuống bãi cát). Vọng cổ được sắp theo điệu oán Oán, nhưng không được kể như " classique ". Học đàn cổ nhạc vì không có lối viết nhạc, nên phải nhớ bằng tai nghe (lúc ấy lại chưa có máy thu băng) thuộc lòng, mà " thầy " dạy không có phương pháp lại mỗi lúc đánh cùng một bản nhạc thì có hơi khác nhau (vì lý do nói ở đoạn trên) nên phải nhiều cố gắng công phu lắm. Tôi còn nhớ lúc nhỏ hay chế diễu việc học đàn bằng câu hát : " Liêu Tồn Liêu Xáng U, cú trên đầu ba bữa còn u " (vì ở Việt Nam trẻ con học cái gì cũng bị đòn).


IV. Khác biệt về lối kiến trúc các cơ cấu (structure) của bản nhạc

Cũng như một bản nhạc Tây phương, một bản cổ nhạc miền Nam cũng được chia ra làm nhiều đoạn hay nhiều lớp (Tứ đại có lớp Xự, và lớp Xang) mỗi lớp có một số câu, mỗi câu có một số nhịp (mesure).



Và từ đây là bắt đầu có một sự khác biệt căn bản giữa hai âm nhạc :
Trong một bản nhạc Tây phương mỗi nhịp (mesure) được chia ra làm nhiều " Thì " (temps) như 2/4, 4/4 hay C, hoặc 3/8, 6/8, 9/8 ... để rồi, tuỳ theo cái " thì " đó mà mỗi nhịp bắt buộc phải có và chỉ có bao nhiêu nốt loại nào (tròn, trắng, đen, một nóc, hai nóc ...) cùng với bao nhiêu ngừng im (pause, silence).
Còn trong cổ nhạc miền Nam thì có nhịp (mesure) chớ không có " thì " (temps), cho nên nhạc sĩ đã là " Instant Composer " thì tuỳ ý, tuỳ hứng, tùy " yên sĩ phi lý thuần " (inspiration) mà đánh bao nhiêu nốt trong một nhịp, nghỉ bao nhiêu lần bao nhiêu lâu cũng được, miễn là, " canh nhịp " cho đúng, để mà ở những chỗ có nhịp chính của bản đàn thì đánh cho đúng cái nốt bắt buộc ở đó, (gọi là " xuống nhịp " cho đúng) ; bởi lẽ mỗi bản nhạc là một cái khung cái mẫu theo một số điệu nào đó thì luôn luôn có một số nhịp chính, ở đó bắt buộc phải đánh nốt nào đó. Thí dụ trong bản nhạc vọng cổ, ở câu 1, thì nhịp đầu là " Hò ", nhịp thứ tư là " Hò ", nhịp thứ 8 là " Xang ", nhịp thứ 12 là " Cống ", thì nhạc sĩ chỉ cần canh nhịp cho đúng để đến nhịp 1 thì đánh Hò, gọi là " xuống Hò ", nhịp 4 thì " xuống Hò ", nhịp 8 thì " xuống Xang ", và nhịp 12 thì " xuống Cống ", còn ở những chỗ khác thì tha hồ, tuỳ ý, tuỳ hứng miễn là canh nhịp sao cho đúng để " xuống nhịp " cho đúng.

V. Khác biệt trong lối " hành sử " (exécuter) bản nhạc

Một nhạc sĩ trình diễn nhạc Tây phương thì bắt đầu là vào ngay bản nhạc (có trước mắt hay thuộc lòng) mà mình phải chơi.
Còn một nhạc sĩ trình diễn cổ nhạc miền Nam thì bắt đầu bằng một hồi " Rao ". Rao nghĩa là đàn theo một điệu nào đó (điệu Bắc, điệu Nam, hay điệu Oán) mà không phải theo khung mẫu của bản nào hết, nên hoàn toàn tuỳ ý, tuỳ hứng. Tức nhiên là lối " Rao Bắc " (đàn nhanh, vui nhộn, liến xắc) có lối " Rao Nam " (đàn ung dung, trầm ngâm, bình thản) và lối " Rao Oán " (đàn chậm, ngân nhiều, cho ra những tiếng buồn rầu, oán hận). " Rao lên " thì người nghe nhạc biết rằng nhạc sĩ sẽ đàn điệu gì (Bắc, Nam hay Oán).
Một tác dụng khác của " Rao ", khi có nhiều người đàn, là để " so dây ". Đàn tây phương lấy nốt La (A) làm căn bản, có định nghĩa khoa học rõ ràng là tiếng phát ra của một sợi dây căng thẳng được rung với một tần số (fréquence) 438 rung động trong một giây đồng hồ (438 vibrations par seconde) (hồi trước là 435) ; có dụng cụ (diapason) để so dây và lên giây các thứ đàn cho đúng.
Còn đàn cổ nhạc miền Nam thì lấy nốt Hò làm căn bản, nhưng không có định nghĩa khoa học rõ rệt nốt Hò là gì, có bao nhiêu rung động trong một giây đồng hồ, và không có dụng cụ để đo, và so dây các thứ đàn, mà chỉ lấy tai nghe. Mà tai người này với người kia khác nhau nên lúc rao là thời gian để các nhạc sĩ sửa dây đàn của mình cho " ăn " với nhau, hoặc " ăn " với giọng của ca sĩ, nếu có ca.
Tác dụng thứ ba của Rao là để biểu diễn. Vì đàn một điệu mà không bị ràng buộc bởi cái khung mẫu của bản nào hết, thì nhạc sĩ có thể tha hồ cho " ra những ngón đàn " đặc biệt của mình để tỏ ra là mình có khả năng đàn mau (" sầm sập như trời đổ mưa "), (" đàn khoan thai như gió thoảng ngoài "), đàn riếu ron (" như tiếng hạc bay qua ") hoặc đàn lâm ly (" như nước suối mới sa nửa vời "). Người sành nhạc, chỉ nghe rao thôi, cũng có thể đánh giá và sắp hạng nhạc sĩ (ưu hay bình, thứ) được. Cho nên nhạc sĩ lúc rao thích " trỗ tài " và " biểu diễn ".
Rao xong thì vào bài, tức là bắt đầu bản nhạc. Thường thường để đánh dấu bắt đầu vào bản nhạc, nhất là khi có nhiều người cùng hoà tấu, thì người nhạc sĩ " cầm canh " hay là " giữ nhịp ", gõ vào nhịp cụ nghe một tiếng " cóc ", tức là bắt đầu, thì mọi người đàn. Trong suốt thời gian đàn, thỉnh thoảng nghe nhịp " cóc "? " cóc "? " cóc ", mau hay khoan tuỳ theo điệu (điệu Bắc thì mau, điệu Nam thì khoan thai hơn, điệu Oán thì chậm hơn nữa). Không phải nhịp nào cũng gõ, mà thường thường là nhịp để chấm câu (như nhịp thứ 16 là để chấm câu trong bản vọng cổ) hoặc để đánh dấu một vài nhịp chính trong câu (như nhịp thứ 12 trong câu vọng cổ). Có khi, nhất là trong các bản đàn điệu Nam hay điệu Oán xưa ; thì có lối " nhịp song loan " như để xuống dòng trong một bản văn viết ; thì người ta nghe như sau : tiếng đang đàn, nghe nhịp một cái " cóc " thì im, đếm thầm một, hai, ba, nghe nhịp một cái " cóc " nữa, thì đàn lại, hoặc như sau : tiếng đang đàn, thì im và nghe gõ nhịp " cóc " - " cóc ", " cóc " - " cóc " thì đàn lại.
IV. Vọng cổ

Đàn và ca vọng cổ là điệu phổ thông nhất và được thưởng thức nhất ở miền Nam sau này cho đến nổi mà đối với một số người Bắc mới vào Nam và có một số người Nam trong thế hệ trẻ, cổ nhạc miền Nam là vọng cổ và chỉ có vọng cổ. Kỳ thực thì cổ nhạc miền Nam có nhiều bài cùng điệu vọng cổ (điệu oán) mà hay hơn vọng cổ rất nhiều như các bài Tứ đại, Văn thiên Tường, hay là Trường tương tư, nhưng các bài ấy vì khó đàn khó ca nên sau này bị lãng quên mà chỉ còn có vọng cổ được tồn tại phổ thông vì dễ đàn và dễ ca.

1. Lịch sử :
Một số người Nam cho rằng vọng cổ phát xuất từ người Chàm ở miền Nam Trung phần (nhớ tiếc thuở xa xưa). Nhưng thuyết ấy không có chứng minh. Dù sao, đến cuối thập niên 1920, hồi thời " máy hát quay tay hiệu con chó có cái loa " (La voix de son maitre), thời dĩa hát hiệu " con gà " của hãng " Pathé ", hồi đời " Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho ", đời mà khi diễn xong một tuồng hát, thì toàn ban ra trước sân khấu hát bài " Ma-Đờ-Long " (Madelon) để từ giã, thì trong Nam đã có bản nhạc " vọng cổ hoài lang ", 20 câu, mỗi câu có 4 nhịp ; đến đầu thập niên 30, lối năm 1935, 36, thì có nhóm nhạc sĩ ở Bạc Liêu đàn bản vọng cổ này mà kéo dài ra mỗi câu có lẽ 16 nhịp, nên lúc ấy trong Nam gọi là " vọng cổ Bạc Liêu " (hay là vọng cổ nhịp 16 "). Kể từ đó và suốt hết thập niên 40 là " thời kỳ vàng son " của vọng cổ với trọn 20 câu, mỗi câu có 16 nhịp, với các nghệ sĩ lừng danh trong cả Nam kỳ như các nhạc sĩ Sáu Tửng (đàn kìm), Chín Kỳ (đàn tranh), Hai Phát (đàn cò), các nam ca sĩ Năm Châu và Bảy Nhiêu, các nữ ca sĩ Cô Hai Đá, cô Ba Bến Tre, cô Tư Sạng, và nhất là cô Năm Phỉ (trong tuồng cải lương " Xử Án Bàng Quý Phi "). Các nhạc sĩ và ca sĩ trên còn đàn và ca được những bài Oán khác như Tứ Đại, Văn Thiên Tường, và trường Tương Tư).



Đến những thập niên 1950, 1960, tân nhạc Việt Nam theo lối nhạc Tây phương tràn ngập vào miền Nam và cổ nhạc miền Nam, nhất là những bản nhạc khó đàn và khó ca, bị lu mờ dần rồi bị lãng quên hẳn, chỉ còn có vọng cổ, rút ngắn lại còn có sáu (6) câu đầu, với nam ca sĩ " ăn khách " nhất là ông Út Trà Ôn, và nữ ca sĩ " ăn khách " nhất là cô Thanh Nga.

2. Nghe đàn và ca sáu (6) câu vọng cổ.
Khởi đầu cuộc trình diễn thì các nhạc sĩ " Rao " (rao điệu Oán : xem ở đoạn trước). Rao một lúc thì ca sĩ bắt đầu " nói lối " trong lúc nhạc sĩ vẫn rao ; khi nói lối gần xong thì nhạc sĩ ngừng rao, chờ cho ca sĩ xuống giọng để vô nhịp Hò đầu (của câu 1) thì nhạc sĩ " bắt " nốt Hò đó để vào bản nhạc và tiếp tục đàn luôn. (Thường thường nếu ca sĩ xuống giọng để " vào nhịp Hò " ấy mà nghe êm tai, mùi mẫn lại ăn khớp với tiếng đàn " bắt " nốt Hò đó thì khán giả vỗ tay rầm rầm).



Ca đến hết câu 1 thì " xuống nhịp Cống ", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 1 cũng là một chữ có dấu sắc, hoặc có khi dấu hỏi hay dấu ngã, mới " ăn " với nốt " Côôống)
Cuối câu 2 thì " xuống nhịp Xang ", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 2 cũng là một chữ không dấu mới " ăn " với nốt Xàãang. (miễn cưỡng lắm mới dùng chữ có dấu huyền thì phải đọc lờ đờ như là không dấu).
Cuối câu 3 và cuối câu 4 đều " xuống nhịp Hò " thì bài ca thường thường cuối câu 3 và cuối câu 4 là một chữ có dấu huyền mới " ăn " với nốt Hò (miễn cưỡng lắm mới dùng một chữ không dấu).
Cuối câu 5 thì " xuống nhịp Xề " nên trong bài ca chữ cuối của câu 5 nhất định phải là một chữ có dấu huyền, mà đọc phải gằng giọng và kéo dài để cho " ăn " với nốt " Xềêê ".



Cuối câu 6 thì xuống nhịp Hò (như 3 và 4) mà phải đọc nhẹ để chấm dứt bài ca cho êm tai.
Hồi xưa nếu còn tiếp tục ca nữa thì đặc biệt đến câu 9, xuống nhịp " Xự ", thì trong bài ca chữ cuối cùng của câu 9 phải là một chữ có dấu nặng mới " ăn " với nốt " Xưựư ".
Trong suốt thời gian đàn và ca thì có một nhạc sĩ vừa đàn vừa " cầm canh " nghĩa là giữ nhịp cụ để " chấm nhịp " thì phải gõ nhịp nghe một tiếng " cóc " ở nhịp thứ 12 và nhịp thứ 16 của mỗi câu (trừ câu 1 thường thường chỉ có 12 nhịp, vì cho rằng " Rao " đã mất hết 4 nhịp, nên phải gõ nhịp ở nhịp 8 và 12).
Đến câu 6, ở nhịp thứ 12 thì phải gõ vào nhịp cụ hai lần (nghe cóc cóc) để báo hiệu rằng còn 4 nhịp nữa hết câu thì sẽ stop, ngưng đàn và ca. Thì nhạc sĩ bắt đầu đàn lơi lơi và chậm lại dần (theo nhạc Tây phương là Rall hay Rallentando) và ca cũng hơi chậm chậm lại cho đến cuối câu nghe nhịp một cái " cóc " nữa là ngưng đàn và ca. Hồi xưa khi còn đàn và ca vọng cổ đủ cả 20 câu, thì đến đây không nghe nhịp hai cái cóc cóc thì nhạc sĩ và ca sĩ không đàn và ca chậm lại và hết câu 6 thì đi luôn qua câu 7.
Sau này còn có cái lối không đàn và ca luôn hết sáu câu, mà đến hết câu 3 thì :
- Hoặc ngừng rồi rao, nói lối, rồi xuống giọng để trở vô nhịp Hò đầu của câu 4, rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6 ;
- Hoặc ngừng rồi rao, ca đệm vài câu của bản " Xuân Tình " hay bản " Chuồn Chuồn " rồi nói lối và xuống giọng để vô nhịp Hò đầu của câu 4 rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6.



Trên đây tôi đã cố gắng trình bày vài nguyên tắc căn bản của cổ nhạc miền Nam, khác biệt với nhạc Tây phương để hiểu thêm phần nào và thưởng thức hơn nhạc cổ điển của chúng ta. Và tôi nghĩ rằng thế hệ già này của Việt kiều di cư, tuy không còn được thưởng thức tiếng đàn và lời ca của những bài cổ nhạc miền Nam độc đáo nữa như các bản Tây thi, Xàng xê, Nam xuân, Nam ai, hoặc Tứ đại, Văn thiên Tường, hay Trường Tương Tư, nhưng vẫn còn thấy xúc động khi được nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ ; chứ đến thế hệ tương lai sau này của Việt kiều di cư, thì chắc chắn không biết tới tên của những bản cổ nhạc ấy nữa, và không biết sẽ còn xúc động khi nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ hay không, hay là sẽ dửng dừng dưng như nghe nhạc A-rab hay nhạc Ấn độ, một sự dửng dừng dưng tò mò của người ngoại quốc ?
***********************************



Nguồn video: youtube

#2
Bài viết hay quá. Qua lối hành văn thì mình phỏng đoán tác giả là Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo.
Muốn tìm hiểu về các nhạc cụ dân tộc
#3
(08-09-2012, 07:36 AM)lehuuhung Đã viết: Bài viết hay quá. Qua lối hành văn thì mình phỏng đoán tác giả là Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo.

Đây là bài "Thưởng thức cổ nhạc Miền Nam và vọng cổ" của Nguyễn Lưu Viên, trong trang Nam Kỳ Lục Tĩnh, mục Nghệ Thuật, không phải của nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo
Tuy nhiên tác giả viết đoạn này thì không đúng :" cổ nhạc miền Nam thì cũng có bảy (7) tên nốt đàn (là : Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liếu, Ú) nhưng kỳ thực thì chỉ có năm (5) tiếng nốt đàn (là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, còn Liêu, Ú, là " nấc trên " của Hò và Xự)".
Thật ra, theo nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo cổ nhạc thuộc hệ ngũ cung nhưng vẫn có 7 nốt: "hò, xự, xư, xang, xê, cống, công" giống nhạc Tây phương.
#4
Thang âm 12 bán âm trên cây Guitar phím lõm - So sánh ký âm Hò Xừ Xang Xê Cống với Tân nhạc:
Một số Quy ước mình ghi chú vào đây khi mình viết tài liệu này:
1. Ký hiệu về nốt nhạc C: Đồ, D: Rề, E: Mi, F: Fa, G: Son, A: La, B: Si, #: là tăng lên 1/2 cung, b: giảm xuống 1/2 cung.
2. Các ngăn phím mình đánh số thứ tự: 0: dây buông, 1: bấm ngăn 1, 2: bấm ngăn 2, v.v...
3. Dấu =: Mình chỉ 2 âm bằng nhau về tần số, đồng âm: Mình chỉ 2 chữ nhạc cùng tên và cách nhau 1 quãng 8 ( Ví dụ Lìu - Líu).
4. Xư có lúc mình gọi là Y cho phù hợp với âm điệu bài đàn.
5. Dây Kìm và Sến: Dây Đại là dây to ở trên, dây Tiểu là dây nhỏ ở dưới.
6. Dây Guitar: Mình quy ước dây số 1 là dây nhỏ nhất, có âm cao nhất.
7. Cao độ của nốt Hò:
Mình quy ước gọi theo dây Tiểu của Kìm như sau:
Hò Nhẩt = G = Hò dây Kép của Guitar
Hò Nhì = A = Hò dây Xề của Guitar
Hò Ba = C (ít sử dụng)
Hò Tư = D = Hò của dây Đào Guitar
Hò Năm = E (ít sử dụng)
Câu chuyện dưới đây nói về sự xuất hiện của sự xướng âm Cổ nhạc Hò xừ xang xê cống líu trên một nhạc cụ Tây phương mà ngày nay đã trở thành cây đàn chính của Sân khấu Cải lương và Đờn ca Tài tử Nam bộ.
Bài viết này mình viết khá lâu rồi, nay xin gửi tặng anh chị Damsan.net.

Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, từ ngày tiền nhân đi mở cõi Phương Nam, trong đoàn người di cư từ Huế vào Nam có một đôi vợ chồng tên là Cổ Nhạc. Ông tên là Cổ, bà tên là Nhạc. Họ vào đến miền Nam sinh cơ lập nghiệp và đem theo gia tài quý giá nhất là Âm Nhạc. Cả hai người sống với nhau rất hoà thuận. Bà con nơi ấp họ ở rất quý mến ông bà Cổ Nhạc. Cứ mỗi độ nông nhàn, dưới ánh trăng họ lại tập trung nhau lại đờn ca những bài bản Tài tử tại nhà ông. Ông bà Cổ Nhạc sanh hạ được 7 người con đều khoẻ mạnh hiền lành tốt bụng. Anh Hai tên kêu là anh Hò. Anh này to khoẻ, tính cách rất tốt và hay giúp đỡ mọi người nên bà con lối xóm hay kêu bằng cái tên thân mật là anh Liu. Anh có tính cách sống ngay thẳng, chân thực nên bà con rất hay lấy anh ra làm mẫu để dạy bảo anh em con cháu họ. Trong xóm ngoài làng có ai gặp khó khăn gì anh xắn tay xông vào giúp đỡ nên được mọi người rất quý trọng. Ông bà Cổ Nhạc rất tự hào về người con trưởng này.
Hai năm sau, bà Nhạc sinh ra một người con trai kế tiếp và đặt tên là Xừ. Anh Xừ rất đẹp trai và học giỏi, tính anh hay giao du, kết bạn và học rất giỏi môn toán. Nhiều cô gái trong làng đem lòng yêu mến và có lúc gọi anh là anh Xự hoặc cậu Xự. Mỗi tối anh đem cây đàn ra ngồi ngoài hiên, dạo lên khúc nhạc tiêu sầu thánh thót làm rung động biết bao trái tim thiếu nữ.
Người con kế tiếp của ông bà Cổ Nhạc là con gái. Cô này có cái tên rất hay là Y . Người cô dong dỏng cao, có cái trán dô rất bướng bỉnh. trong nhà cô không mấy khi nghe ai, cứ ý mình làm, đôi khi bà con lối xóm hay la rầy và thưa với ông bà Cổ Nhạc nhưng cổ vẫn chứng nào tật ấy, không sửa. Tính cô hiếu động, không mấy khi ngồi một chỗ. Có nhiều hôm cô còn rủ chúng bạn bơi xuồng qua sông sang làng bên cùng bọn trai làng bên ấy đánh trận giả. Nhiều lúc cổ làm ông Cổ rất phiền lòng. Nhiều hôm ông nói với bà Nhạc:
- Tui là tui không ghét bỏ gì nó nhưng nó quậy phá thế này tui hông chịu nổi.
Bà Nhạc cũng lấy làm buồn lòng lắm và an ủi ông Cổ:
- Thui mà ông ơi, cha mẹ sanh con trời sanh tính, tui sanh ra chúng đứa nào tính cách thế nào tui biết mà....
Do tính tình ngang bướng không chịu ngồi im 1 chỗ nên bà con có người kêu cổ là Y có người kêu cổ là Xư......



Sau khi sanh anh Xừ được Ba năm thì bà Nhạc có mang và sanh ra môt cô gái đẹp người đẹp nết, nết na hiền dịu đặt tên là Xang. Cô thật duyên dáng và dịu dàng và có một giọng nói rất truyền cảm sâu lắng. Nhiều trai làng để ý đến cô, nhiều người đêm đêm còn đến bên vách căn phòng cổ ngủ đem tiếng sáo tiếng đàn của mình để lay động trái tim người đẹp. Nhiều đám trai làng đánh nhau cũng chỉ vì cổ, thậm chí nhiều bà trong xóm còn đem cổ ra để làm gương cho con gái mình:
- Mày không sang nhà ông Cổ mà xem cái Xang, nó đẹp người, đẹp nết, ngoan hiền lại học giỏi....mày xem có được có bằng một phần của nó không???
Nhiều cô gái ngậm ngùi than thân trách phận sao mọi người rất quý chị Xang mà không quý họ. Tiếng lành đồn xa, tiêng dữ đồn xa. Nhiều ông Bá hộ trong làng ngoài tỉnh xa cũng cưỡi ngựa đến xem mặt để gả cho con trai mình. Nhà ông bà Cổ tấp nập ngựa xe, các ông chủ đồn điền, các cậu công tử tấp nập ra vào nhằm "rinh" cô Xang. Ông bà Cổ phấn khởi ra mặt. Bà thường nói với mọi người:
- Cháu nó hãy còn bé, tui cầu ông địa mong se cho nó một tấm chồng tử tế thôi chứ giàu sang phú quý mà làm chi...Bả nói với ông Cổ:
- Ông này, sanh ra đứa con nó ngoan hiền xinh đẹp cũng mát cả lòng dạ ông ạ.
Ông Cổ nhắp 1 ngụm Gò Đen và cười khà khà. Ổng nhắm mắt lại mơ thấy một ngày được anh con rể đưa đi nghe hát Tài tử, nghe đâu ở làng bên có mấy ông chơi Tài tử hay lắm....
Hai năm sau, bà Cổ lại có mang, lần này bà sanh ra một anh con trai và đặt tên là Xê. anh Xê thì rất thông minh, học đâu biết đó, về sau khi ông bà Cổ mất đi người ta còn đồn rằng thời đó ông Cổ còn đón thầy đờn tận xứ Bạc Liêu về dạy anh đờn. Anh thường sử dụng rất tốt đờn Kìm, đờn Cò và đờn Tranh. Tính tình anh Xê ngay thẳng, tháo vát, ăn nói rất từ tốn nhẹ nhàng. Xem chừng anh Xê rất hạp với tính ông Cổ, có khi ổng gọi anh bằng cái tên thân mật là Xể . Năm anh lên 20 tuổi anh đã được rất nhiều thầy đờn truyền dạy những ngón đờn điêu luyện và xuất thần. Thường khi có mở hội thi đờn anh thường đạt giải nhất. Nói vậy chớ mọi người thấy anh tối đến hay chui vô mùng ngồi tập đờn một mình. Ông bà Cổ thấy anh ham đờn nên tận tình chỉ dạy và cũng giao với anh rằng nếu như anh có chí thú thì sẽ sang hỏi con gái cô Tỳ làm vợ cho. Ảnh phấn khởi ra mặt và chuyên tâm tập đàn tối ngày.
Người con trai tiếp theo của ông bà Cổ sanh ra sau anh Xê Hai năm là anh Cống. Anh này thì tính nết không bằng anh Hò và anh Xê. Hay tức tối cáu giận. Nhiều khi hay gây tranh cãi giữa mấy anh em trai. Có hôm thấy anh Xê ngồi đờn thì Cống nói:
- Ui trời ơi, anh tập đờn chi cho mắc công, mướn thầy đờn về là được rồi. Cứ như tui đây này, đi chơi tối ngày, tối chui vô mùng ngủ, thế mà con gái theo ầm ầm, gạt ra hổng hết, còn anh có ma nào thèm ngó tới anh????
Anh Xê chỉ cười lặng lẽ tay nắn cung phím đàn cất lên từng tiếng nhạc khoan dung.
Do bản tính hay trêu ghẹo người khác nên dân làng cũng không thích anh này, nhiều lúc người ta gọi anh là anh Cộng cho bõ ghét...



Người em gái của anh Cống là cô Phan. Cô này thì không xinh đẹp bằng cô Xang nhưng có nét dịu dàng đằm thắm"chết người". Cô hiền từ ít nói, nhưng khi cô nói thì mọi người rất chú ý lắng nghe, đặc biệt là những ý kiến cô đưa ra đều rất trúng ý của ông bà Cổ. Ví thử như có hôm cô nói nhỏ với bà Cổ:
- Má à, con nghe nói bên nhà bác Kìm có anh Tiểu rất thư sinh nho nhã, hổm rày con thấy ảnh thậm thụt qua nhà mình kêu chị Xang qua nhà ảnh có chuyện chi đó ....má xem.....
Bà Cổ gạt đi: Chuyện người lớn, mày biết chi mà nói chứ.....
Thấy mình đã lớn mà ba má còn chê là trẻ con, nhiều lúc cổ thấy mình thật tủi thân oan ức....Cô tâm sự với bạn bè điều này thì keu cô bằng cái tên là Oan để chia sẻ và thông cảm với cổ.
Người con út của ông bà Cổ lại là người rất đặc biệt. Người ta còn kể lại rằng sau khi sanh ra anh Cống được Ba năm thì bà Cổ một lần đi chợ về khi qua cây cầu khỉ trước nhà trượt chân té xuống kênh. Khi người ta vớt bả lên thì bả gần như chết rồi. Mọi người xúm vào, người thì kêu xức dầu gió, người thì vội chạy đón thầy lang Tư Hiếu , may sao đợt đó bà Cổ qua khỏi cơn nguy kịch. Mỗi bận trái gió trở trời cái chân bà bị té lại đau nhức. Cuối năm đó thì bà Cổ lại có mang. Mọi người đến chúc mừng, bà Tám hàng xóm sang nhà thăm và nói với bà Cổ:
Em tưởng chị sanh đến cháu Phan là thôi cứ, mình tuổi cao rồi, sanh nở phức tạp lắm chị Cổ ơi.
Bà Cổ nói: Thui thì tui cũng cố lần này nữa thôi cho chúng nó có chị có em.
Đến ngày bà Cổ sanh, cả nhà thấp thỏm. Người lo âu ra và, ông Cổ chắp 2 tay sau lưng đi đi lại lại ra chiều lo lắm. Khi bà mụ đỡ đứa bé ra, cả nhà ồ lên vì đứa bé giống anh Hai nó như đúc, từ tiếng khóc chào đời, nụ cười khi nhìn thấy ông Cổ. Cả nhà ông bà Cổ vui như được mùa. Bà Cổ tuy đau đớn nhưng cố nhỏm dậy nhìn mặt đứa con trai út, bà thầm nghĩ: sao nó sanh ra cách thằng Hai nhà mình 12 năm mà sao nó giống thằng Hò như tạc vậy. Về sau dân làng ấy kể lại rằng anh con út nhà ông bà Cổ giống người anh Hai y chang từ cách ăn mặc, dáng đi, nụ cười, tính cách..v...v...chỉ hơi khác một chút về chiều cao thôi. Ông bà Cổ rất quý anh con út nên thấy anh Hai được gọi là Lìu thì ông đặt luôn tên cho nó là Líu.
Cả nhà ông Cổ như vậy sống rất hoà thuận, tuy mỗi người một vẻ, một tiếng nói, một tính cách nhưng họ rất hiền hoà dễ thương.




Cho đến một buổi sáng......
bà Cổ xách giỏ rồi dặn ông Cổ:
Hôm nay tui đi chợ đường xa, ông ở nhà xem nom bảo ban chúng nó học hành, tui qua chợ mua mấy con cá lóc về nấu canh chua, nhân thể qua thăm nhà cô Tranh hỏi thăm cổ bị ốm.
Ông Cổ gật gù:
- Ờ, bà đi mau về, nếu có qua nhà ông Sến thì gửi ổng chai Gò Đen và mấy trái khóm tui qua Long An mới mua dìa làm wà cho ổng nha.
Bà Cổ đi rồi, ông Cổ ở nhà thì thấy anh Xê chạy về nói:
- Ba ơi ba, bác Kìm kêu con về nói ba qua nhà ổng bàn có công chuyện.
Đến trưa, ông bà Cổ về ...kỳ quá...lũ trẻ đi đâu không rõ....2 ông bà mới tá hoả tam tinh lên, kêu khắp xóm trên xóm dưới....mọi người đổ xô đi tìm...bà Cổ ngồi xuống bực thềm nhà lăn ra khóc vật vã.....một lúc sau người ta thấy 7 anh em nhà ông Cổ lò dò bước vào nhà. Ông Cổ quát:
- Chúng bay để nhà cửa thế này đi đâu hết trơn hết trọi....
Mấy đứa nem nép vào nhau, đứa này đùn đẩy đứa kia, cuối cùng anh Hò lên tiếng:
Dạ thưa ba má, khi ba má đi vắng ở nhà xảy ra chuyện lớn ạ, chúng con hổng biết sao bây giờ....
Bà Cổ nói: Có chuyện chi tui bây nói nghe coi???
Anh Hò thưa: Dạ thưa ba má, ba má đi khoảng một lúc thì nhà ta có khách ạ. Một ông to béo nói là bạn của ba, ổng xưng tên là Tây Ban Cầm, tên nghe lạ wá , chúng con mời ổng vào nhà, uống nước và nói ổng đợi ba dìa. Ổng nói có việc gấp phải đi ngay hình như có buổi hoà nhạc ở Gia Định. Ổng có gửi lại cho ba món quà. Mấy anh em chúng con mở ra xem nhưng tiếp theo thì con hổng dám kể, con sợ ba oánh chúng con.....
- Ba không oánh đứa nào hết, có chuyện chi nói nghe coi....
Lúc này anh Xê mới lên tiếng:
- Dạ thưa ba má, chúng con thấy ông Tây Ban Cầm gửi qua tặng ba cây đờn. Chúng con thấy bác Kìm, bác Sến, cô Tỳ, cô Tranh ai cũng có ngăn phím cao hết nên chúng con hò hét nhau khoét phím lõm sâu xuống rồi ạ.
Ông Cổ cười ồ lên và nói: Tưởng chuyện gì......thôi cả nhà ta vô đây xem nào, con Xang xuống bếp phụ với má mày nấu canh chua cá lóc, thằng Xê qua nhà bác Kìm, bác Sến, mời 2 bác qua đây cùng xem cây đờn mới của châu Âu.


Mọi người cùng nhau ngắm nghía cây đàn Tây Ban Cầm khoét lõm phím...trầm trồ khen ngợi âm thanh của nó.....
Nhà ông Cổ hôm đó vui như tết, còn vui hơn cả ngày bà Cổ sanh ra anh Líu.


Đêm đó, ông bà Cổ không sao ngủ được, thỉnh thoảng ổng ngồi dây, vấn một điếu thuốc rê, ngọn lửa bập bùng thi thoảng loé lên soi rõ khuôn mặt khắc khổ....bà Cổ thì nằm trong mùng nói với ra:
- Ông ơi, vô ngủ thôi nghĩ làm chi cho mệt....
- Bà nó ơi, dậy tui nói chuyện này....tui thấy sắp nhỏ nhà mình có vẻ quý mến quyến luyến cây đờn Tây Ban Cầm....hay là ngày mai ta sắp chỗ cho chúng mỗi đứa một ngăn nha bà. Tui cứ băn khoăn không biết có ra Cổ Nhạc không nữa.
- ừ , tui thấy ý tưởng ông hay đó...để mai tui nói các con...
Hai ông bà thì thầm rì rầm cả đêm bàn tính chuyện sáng mai......
Sáng hôm sau....ông bà Cổ dậy sớm .... bà Cổ gọi lũ trẻ dậy cho chúng ăn sáng và nói:
- Này các con, ba má sanh ra các con cũng đã nuôi nấng dạy dỗ bảo ban, đến nay ba má cũng đã sức tàn lực kiệt....nay có cây đờn Tây Ban Cầm ở đây, ba má cũng làm thử nghiệm xem có hạp với đờn Cổ Nhạc không, các con cùng hợp sức với ba ma nhen.
Lũ trẻ thấy lạ kỳ vì hôm nay dậy sớm, ông bà Cổ còn ăn mặc chỉnh tề, chúng chưa hiểu chuyện gì cả.....Bà Cổ bả với cô Xang:
- Con qua nhà cô Tỳ, cô Tranh, bác Kìm nói ba mẹ cháu mời cô bác sang có chút công chuyện...
ông Cổ bảo bà Cổ:
- Bà thắp cho tui cây nhang....tui khấn tổ tiên ông bà cho 7 đứa con nhà mình nó được bảo tồn và phát huy.....
Sau khi thắp nhang xong, ông Cổ vẫy anh Hò lại và nói với anh:
- Con à, cả nhà ta con là lớn nhất, con là anh Hai để cho sắp nhỏ nó trông cậy vào còn, nay ba thay tên cây Tây Ban Cầm là Lục Huyền Cầm, con tên là Hò mà đây là sự hợp nhất lần đầu tiên, hôm qua ba có trao đổi với bác Kìm rồi nên đặt tên con là Hò Nhất giống anh Tiểu nhà bác ấy. Ba má luôn bên cạnh các con mà...
Nói đoạn ông Cổ đặt anh Hò vào ngăn 5 dây 3 của cây Lục Huyền Cầm. Anh Hò gạt nước mắt, lần đầu tiên trong đời thấy anh khóc....trong sự thương yêu của ba má....Rồi trong thời khắc thiêng liêng ấy 2 ông bà Cổ Nhạc lần lượt đặt từng đứa con yêu quý của mình vào các ngăn đàn do tự tay chúng đã khoét lõm như một sự định mệnh.... bà Cổ lầm rần khấn trời vái đất cầu mong cho chúng có sức khoẻ, lớn khôn....
Trong sự chứng kiến của cô Tỳ, cô Tranh và bác Kìm hai ông bà Cổ đặt tất cả những đứa con thân yêu dứt ruột đẻ ra vào từng ngăn đàn theo số năm chúng đã được sanh ra trên đời so với anh Hò. Bà Cổ run run cầm cây đờn, vuốt ve an ủi từng đứa con cho chúng chuẩn âm, còn ông Cổ khảy lên những âm thanh đầu tiên : Ngũ cung Bắc. Hò - Xừ - Xang - Xê - Cống ( G-A-C-D-E)
Hò qua Xừ = 2 ngăn; Xừ qua Xang = 3 ngăn; Xang qua Xê = 2 ngăn; Xê qua Cống = 2 ngăn; Cống qua Líu = 3 ngăn.
Cung Hò Nhất trên đàn Guitar
Từ đó đến nay có biết bao thế hệ nghệ sĩ nhạc sư, nhạc sĩ theo đuổi sự nghiệp cầm ca đã cùng với 7 người con thân yêu của ông bà Cổ và cây đờn Lục Huyền Cầm làm rạng danh nền Âm nhạc Việt Nam như mong ước của ông bà Cổ Nhạc.
Quảng Ninh, ngày 9 tháng 12 năm 2010
Lê Hữu Hùng
Xin tặng lại câu chuyện truyền thuyết về Hò xừ xang xê cống líu trong Cổ nhạc Nam bộ cho anh chị em Damsan.net
Muốn tìm hiểu về các nhạc cụ dân tộc


Có thể liên quan đến chủ đề...
Chủ đề: Tác giả Trả lời: Xem: Bài mới nhất
  ÂM NHẠC DÂN TỘC ( ĐÀN TRANH ) truongtailinh1993 39 98,243 03-05-2019, 10:16 AM
Bài mới nhất: lehuuhung
  Cách nhận biết các nốt nhạc trên sheet đàn tranh nhatruc 2 13,447 10-21-2014, 01:09 PM
Bài mới nhất: BaGaiLeeLỳ
Tongue Đoản khúc Lam Giang - Nhạc tài tử lang_du 2 8,571 08-13-2013, 06:35 AM
Bài mới nhất: truongtailinh1993
  Hội cổ nhạc hoa Q5 nhiều khả năng có dạy Guzheng thandaolua 3 9,788 07-18-2013, 12:31 PM
Bài mới nhất: thandaolua
  (?) Hỏi về làng nhạc cụ Đào Xá, Ứng Hòa, Hà Tây cũ sonnu 102 215,543 07-16-2013, 10:53 AM
Bài mới nhất: monalisa19802000
  Nhạc đệm ngâm thơ Tuổi thơ 0 6,366 04-26-2013, 01:40 AM
Bài mới nhất: Tuổi thơ
Tongue Xin hướng dẫn cách xếp các con nhạn và chỉnh nốt nhạc thứ tự của đàn tranh dieptieuchau 6 19,001 11-04-2012, 12:43 AM
Bài mới nhất: songngoc
  Nhạc cổ Huế lonsualangxang 3 9,918 04-19-2012, 03:59 PM
Bài mới nhất: Duy-Ly

Di chuyển nhanh:


Những người đang xem chủ đề này: 4 khách